VIỆN NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN LOGISTICS VIỆT NAM

VIETNAM LOGISTICS RESEARCH AND DEVELOPMENT INSTITUTE (VLI)

A subsidiary of Vietnam Logistics Business Association - VLA

Địa chỉ:
Điện thoại: (+84) 28 7301 8689

Tranh chấp về hợp pháp hóa lãnh sự

vlimonamedia

17/10/2025


“Hợp pháp hóa lãnh sự là việc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam chứng nhận con dấu, chữ ký, chức danh trên giấy tờ, tài liệu của nước ngoài để giấy tờ, tài liệu đó được công nhận và sử dụng tại Việt Nam” và “việc chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự chỉ là chứng nhận con dấu, chữ ký, chức danh trên giấy tờ, tài liệu, không bao hàm chứng nhận về nội dung và hình thức của giấy tờ, tài liệu” (theo Nghị định số 111/2011/NĐ-CP). Vụ tranh chấp dưới đây của một doanh nghiệp Việt Nam với một doanh nghiệp nước ngoài về vấn đề giấy tờ, tài liệu có cần phải hợp pháp hóa lãnh sự hay không cho thấy một số vấn đề cần lưu ý để bạn đọc tham khảo.  

1. Tóm tắt sự việc

Công ty HTC (“HTC”) và Công ty Vận tải biển VSN (“VSN”) ký Hợp đồng dịch vụ số 118/HTMV/2022-CKD ngày 01/7/2022 (“Hợp đồng”), trong đó HTC là khách hàng và bị đơn (VSN) là nhà cung cấp dịch vụ, trong đó có dịch vụ vận chuyển hàng hóa là các linh kiện ô tô KD từ cảng khởi hành (bất kỳ cảng xuất khẩu nào) đến cảng đích (cảng Hải Phòng và/hoặc bất kỳ cảng nào khác tại Việt Nam). Để thực hiện Hợp đồng, tàu “EVER BASIS” V. 1000-041 AI đã vận chuyển toàn bộ lô hàng gồm 146 container từ cảng Ulsan, Hàn Quốc đến cảng Cao Hùng, Đài Loan, được chuyển tiếp lên tàu “UNI ASSENT” V.1017-599S tại cảng Cao Hùng để vận chuyển đến cảng VIP Green, Hải Phòng, Việt Nam. Tàu “UNI ASSENT” V.1017-599S đã cập cảng VIP Green, Hải Phòng vào ngày 18/9/2022. Toàn bộ 146 container đã được dỡ và để tại cảng VIP Green. Sau đó, tất cả số container này đã được giao theo Vận đơn vào các ngày khác nhau và được vận chuyển bằng đường bộ đến kho của HTC tại tỉnh Ninh Bình.

Qua thông báo tổn thất của HTC, Công ty giám định (“NOR HN”) theo yêu cầu của Công ty bảo hiểm hàng hóa đã tiến hành giám định 16 container được cho là có hư hỏng hàng hóa do nước mặn xâm nhập trong quá trình vận chuyển trên biển từ cảng Ulsan, Hàn Quốc đến cảng VIP Green, Hải Phòng với chi tiết như sau: số hợp đồng bảo hiểm/số vận đơn/số container lần lượt là: 000929/ VSNB2209007/ EGHU8447847 và HMCU9086129; 000930/ VSNB/ 2209008/ EMCU9883840, DFSU6688609, TGBU4026499, DFSU6896937 và EISU9445173; 000931/ VSNB2209009/ DRYU9585481 và EITU1455630; 000932/ VSNB2209010/ TRHU7080650 và TLLU4085532; 000933/ VSNB2209011; 000934/ VSNB2209012/ TLLU7693027 và EITU9328740; 000935/ VSNB2209010/ TCNU3269302 và TEMU8681122.  

Công ty bảo hiểm đã bồi thường 5.283.075.432 đồng, nhận Giấy biên nhận và thế quyền từ người được bảo hiểm (HTC), thu xếp bán đấu giá hàng hóa bị hư hỏng, thu hồi được số tiền là 846.773.000 đồng. Công ty bảo hiểm cho rằng VSN có trách nhiệm bồi thường toàn bộ tổn thất hàng hóa theo quy định của hợp đồng vận chuyển đã ký với HTC, Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, và yêu cầu VSN bồi hoàn số tiền là 4.436.302.432 đồng và bảo lưu quyền đòi chi phí pháp lý, phí biên dịch, tiền lãi, tổn thất và thiệt hại khác. Sau đó, Công ty bảo hiểm đã nhiều lần yêu cầu VSN bồi hoàn số tiền 4.436.302.432 đồng nhưng không nhận được phản hồi từ VSN. Do đó, Công ty bảo hiểm đã khiếu nại VSN bằng việc nộp Đơn khởi kiện tại một Trung tâm Trọng tài, bắt đầu quá trình tố tụng trọng tài để đòi bồi hoàn số tiền nêu trên và các yêu cầu khác.  

2. Quan điểm của nguyên đơn và bị đơn

Nguyên đơn yêu cầu hợp pháp hóa lãnh sự một số giấy tờ, tài liệu và cho rằng Đơn khởi kiện ban đầu được nộp bằng tiếng Việt và sau đó được dịch là hợp lệ. Họ khẳng định cần áp dụng các quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam và thời hiệu khởi kiện trong vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Nguyên đơn cũng yêu cầu được cung cấp Nhật ký hành trình của các tàu EVER BASIS và UNI ASSENT và lập luận rằng các tài liệu được ký trước ngày 10/5/2024 là không hợp lệ nếu được nộp sau ngày đó.

Trả lời yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn bác bỏ đòi hỏi hợp pháp hóa lãnh sự giấy tờ vì cho rằng yêu cầu đó thiếu cơ sở pháp luật. Sau đó, bị đơn gửi thư thứ hai – Thư D2 đề ngày 27/3/2024 – trong đó nêu quan điểm của mình về một số vấn đề bao gồm: (i) Về yêu cầu hợp pháp hóa lãnh sự của nguyên đơn: bị đơn bác bỏ mọi yêu cầu này của nguyên đơn và cho rằng những yêu cầu này thiếu căn cứ pháp luật phù hợp; (ii) Bị đơn nhấn mạnh trọng tài và tòa án là hai hệ thống giải quyết tranh chấp riêng biệt ở Việt Nam, được điều chỉnh bởi các luật riêng biệt; (iii) Bị đơn cho rằng Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và các quy định liên quan không yêu cầu các văn bản có chữ ký của người nước ngoài phải được hợp pháp hóa lãnh sự để được chấp nhận khi tham gia tố tụng trọng tài. Ngoài ra, bị đơn còn khẳng định việc yêu cầu hợp pháp hóa Giấy ủy quyền trong vụ kiện này là không cần thiết và không có căn cứ. Tuy vậy, để hỗ trợ Hội đồng Trọng tài, bị đơn đã thực hiện các thủ tục hợp pháp hóa lãnh sự và cung cấp các giấy tờ cần thiết.

3. Quyết định của Hội đồng Trọng tài

Về việc hợp pháp hóa lãnh sự văn bản ủy quyền trong trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài cho đến trước Phiên họp cuối cùng, Nguyên đơn đã yêu cầu hợp pháp hóa lãnh sự đối với (i) Thư ủy quyền ngày 18/12/2023 của VSN; (ii) Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 104-81-75006 cấp ngày 23/1/2024; và (iii) Giấy ủy quyền ngày 25/1/2024 của VSN cho công ty A.S.LLC. Nguyên đơn cũng phản đối việc nộp các giấy tờ, tài liệu được hợp pháp hóa lãnh sự muộn (sau ngày 10/5/2024). Vấn đề mấu chốt ở đây là liệu Văn bản ủy quyền của Bị đơn cũng như các giấy tờ, tài liệu khác có nhất thiết phải được hợp pháp hóa lãnh sự để có hiệu lực pháp lý trong vụ kiện này tại trọng tài hay không. Theo quan điểm của Hội đồng Trọng tài, vấn đề này liên quan đến ý nghĩa và phạm vi áp dụng của Nghị định số 111/2011/NĐ-CP 05/12/20211 về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự, đặc biệt là khoản 2 Điều 4 và khoản 4 Điều 9 có liên quan của nghị định này, quy định như sau: theo khoản 2 Điều 4 thì “Để được công nhận và sử dụng tại Việt Nam, các giấy tờ, tài liệu của nước ngoài phải được hợp pháp hóa lãnh sự, trừ trường hợp quy định tại Điều 9 Nghị định này”. Điều 9 xác định các giấy tờ, tài liệu được miễn chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự, ngoài những quy định khác, khoản 4 Điều 9 chỉ rõ: “Giấy tờ, tài liệu mà cơ quan tiếp nhận của Việt Nam hoặc của nước ngoài không yêu cầu phải hợp pháp hóa lãnh sự, chứng nhận lãnh sự phù hợp với quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam hoặc của nước ngoài”.

Căn cứ quy định nêu trên, Hội đồng Trọng tài xem xét, xác nhận, chấp nhận các vấn đề sau đây: (i) Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 và Quy tắc trọng tài của trung tâm trọng tài trong vụ kiện này không quy định việc hợp pháp hóa giấy tờ, tài liệu là yêu cầu bắt buộc trong tố tụng trọng tài; (ii) Yêu cầu hợp pháp hóa giấy tờ, tài liệu mà Nguyên đơn đưa ra không có đủ căn cứ pháp lý để chứng minh cho yêu cầu đó; (iii) Bị đơn đã nộp giấy tờ, tài liệu được hợp pháp hóa lãnh sự; và (iv) Tại Phiên họp giải quyết tranh chấp, cả hai bên đều xác nhận rõ ràng rằng không có yêu cầu gì thêm về mọi vấn đề từ phía bên kia và không phản đối việc xuất trình, nộp giấy tờ, tài liệu của phía bên kia cũng như những người tham gia. Từ đó, Hội đồng Trọng tài đi đến kết luận rằng không cần phải hợp pháp hóa lãnh sự giấy tờ, tài liệu của các bên trong vụ tranh chấp này.

(Đây là vụ kiện đòi bồi hoàn số tiền 4.436.302.432 đồng và một số chi phí. Những vấn đề tranh chấp chính là luật áp dụng; thời hiệu khởi kiện (với hàng container); thời điểm trả hàng (với hàng container); hợp pháp hóa lãnh sự giấy tờ, tài liệu; miễn trách nhiệm do thời tiết xấu/thiên tai; lưu ý về thống kê hàng hóa thu hồi trong bảo hiểm, và đòi bồi thường thiệt hại hàng hóa. Ngoài những vấn đề khác, Phán quyết trọng tài (quyết định của Hội đồng Trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài) chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền bồi thường tổn thất hàng hóa là 3.723.375.934 đồng, tỷ lệ phí trọng tài trên số tiền yêu cầu bồi thường của nguyên đơn được chấp nhận, và bác các yêu cầu khác của nguyên đơn).

Luật sư, Trọng tài viên Ngô Khắc Lễ