VIỆN NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN LOGISTICS VIỆT NAM

VIETNAM LOGISTICS RESEARCH AND DEVELOPMENT INSTITUTE (VLI)

A subsidiary of Vietnam Logistics Business Association - VLA

Địa chỉ:
Điện thoại: (+84) 28 7301 8689

Trả nợ “trong thời gian hợp lý” thì lãi suất và tiền lãi tính như thế nào? 

vlimonamedia

04/11/2025

Tác giả: LS/ TTV Ngô Khắc Lễ – VLA/ VLI

Khi không xác định thời gian trả nợ có thể vì mối quan hệ trong giao dịch thương mại hay vì lý do khác có thể dẫn đến cách hiểu khác nhau, khá phức tạp và làm cho hội đồng trọng tài phải cân nhắc một phương án tối ưu, tuy không thể làm thỏa mãn tất cả qua vụ kiện dưới đây (bản dịch từ nguyên văn tiếng Anh)  để bạn đọc tham khảo.  

1. Tóm tắt vụ việc

Nguyên đơn thuê tàu bay của Bị đơn. Bị đơn đã nhận tiền thuê của một số chuyến bay nhưng chưa thực hiện và chưa trả lại phần còn thừa. Trong Bản sửa đổi, bổ sung Đơn khởi kiện (RFA) ngày 06/05/2024, Nguyên đơn yêu cầu trả lãi chậm thanh toán là 244.100,10 đô la Mỹ, viện dẫn Điều 7.3 của Hợp đồng thuê tàu bay và Điều 306 của Luật Thương mại năm 2005 làm cơ sở pháp lý cho yêu cầu của mình. Điều 7.3 của Hợp đồng thuê tàu bay quy định như sau: “Mọi khoản thanh toán tiền thuê tàu bay do Khách hàng trả cho Nhà điều hành sẽ được hoàn trả cho Khách hàng, trong thời hạn hợp lý, không tính lãi, trong trường hợp chuyến bay không thể thực hiện như đã nêu ở trên.” Trong RFA, Nguyên đơn khẳng định như sau: “Bên bị đơn đã không thực hiện nghĩa vụ của mình theo Điều 7.3 là hoàn trả một nửa giá thuê theo Hợp đồng thuê tàu bay chuyến đầu tiên và giá thuê theo Hợp đồng thuê tàu bay chuyến thứ hai trong thời hạn hợp lý khi bên bị đơn không sắp xếp được các chuyến bay, mặc dù Nguyên đơn đã nhiều lần nhắc nhở”.


Như vậy, theo Điều 306 của Luật Thương mại năm 2005, Nguyên đơn có quyền yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán “theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường” đối với một nửa giá thuê theo hợp đồng thuê chuyến đầu tiên, tức là 303.500 đô la Mỹ và toàn bộ giá thuê theo hợp đồng thuê chuyến thứ hai, tức là 635.000 đô la Mỹ, kể từ khi hết thời hạn hợp lý để Bị đơn thực hiện việc hoàn trả đó. Nguyên đơn xác định rằng thời hạn hợp lý đó là 07 ngày kể từ ngày các chuyến bay theo lịch trình, tức là ngày 21/9/2021 theo hợp đồng thuê chuyến đầu tiên và ngày 26/9/2021 theo hợp đồng thuê chuyến thứ hai. Do đó, Nguyên đơn yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán bắt đầu từ ngày 3/10/2021 cho đến ngày ban hành phán quyết trọng tài.” Các Bên thỏa thuận tại Điều 7.3 của Hợp đồng thuê tàu bay tàu rằng việc hoàn lại giá thuê là “không tính lãi” trong trường hợp được hoàn lại “trong thời hạn hợp lý”. Điều đó có nghĩa là việc hoàn tiền “không tính lãi” là một thỏa thuận có điều kiện của các Bên. Ngoài ra, các Bên không có thỏa thuận về tiền lãi do chậm thanh toán trong trường hợp giá thuê không được hoàn lại “trong thời hạn hợp lý”.

2. Phân tích và quyết định của hội  đồng trọng tài

2.1. Trên cơ sở đó, hội đồng trọng tài thấy rằng Nguyên đơn có quyền yêu cầu tính tiền lãi do chậm thanh toán. Tuy vậy, vì Điều 7.3 của Hợp đồng thuê tàu bay không nêu chi tiết thời điểm hoàn trả tiền nên hội đồng trọng tài không cơ sở để cho rằng tiền lãi do chậm thanh toán bắt đầu tính từ “07 ngày kể từ ngày các chuyến bay theo lịch trình”. Trong những trường hợp này, có thể hiểu một cách hợp lý rằng khoản thanh toán phải đến hạn và phải trả trong một khoảng thời gian hợp lý kể từ ngày yêu cầu thanh toán theo Điều 278.3 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Hội đồng trọng tài chấp nhận khoảng thời gian hợp lý trong trường hợp này là 07 ngày kể từ ngày Nguyên đơn yêu cầu thanh toán. Trong email ngày 05/11/2021, Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn hoàn trả tiền thuê tàu bay, cụ thể như sau: “Xin chào. Vui lòng chấp nhận đây là yêu cầu hoàn trả tiền cho các chuyến bay PNH-PIT và HAN-PIT của chúng tôi. Vui lòng xem các bản đính kèm và dưới đây thông tin chi tiết và biên lai để bạn dễ dàng tham khảo. Khoản thiếu hụt cho chuyến bay SZX-XCR là 108,00 USD; Chuyến bay PNH-PIT thực hiện một nửa là 348.500,00 = 697.000 USD/2; HAN đến PIT là 680.000,00 USD; Chuyến XCR đầu tiên từ PNH (45.000,00 USD); Chuyến XCR thứ 2 từ HAN (45.000,00 USD); Phụ phí cho PNH do chậm trễ là 46.400,38 USD = 32.803,49 + 13.596,89; Tổng cộng: 985.008,38 USD”. Trên cơ sở đó, Hội đồng trọng tài xác định Nguyên đơn được hưởng tiền lãi do chậm thanh toán theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 trong trường hợp Bị đơn không hoàn trả tiền thuê trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày 05/11/2021, hay nói cách khác là Nguyên đơn được hưởng tiền lãi do chậm thanh toán (theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005) kể từ ngày 12/11/2021. Bị đơn đã trả cho Nguyên đơn các khoản tiền sau đây như một phần của khoản hoàn trả cho giá thuê theo Hợp đồng thuê tàu bay thứ hai: (i) 10.000 đô la Mỹ đã trả ngày 06/6/2022; (ii) 10.000 đô la Mỹ ngày 11/9/2023; và (iii) 15.000 đô la Mỹ ngày 04/3/2024. Do đó, Bị đơn có nghĩa vụ trả tiền lãi do chậm thanh toán như sau: (i) tiền lãi do chậm thanh toán đối với giá thuê là 938.500 đô la Mỹ từ ngày 12/11/2021 đến ngày 06/6/2022; (ii) tiền lãi do chậm thanh toán đối với giá thuê là 928.500 đô la Mỹ từ ngày 06/6/2022 đến ngày 11/9/2023; (iii) tiền lãi do chậm thanh toán đối với giá thuê là 918.500 đô la Mỹ từ ngày 11/9/2023 đến ngày 04/3/2024; và (iv) tiền lãi do chậm thanh toán đối với giá thuê là 903.500 đô la Mỹ từ ngày 04/3/2024 đến ngày 15/5/2024, tức là ngày diễn ra phiên họp giải quyết tranh chấp.

2.2. Về lãi suất do chậm thanh toán, các Bên không có thỏa thuận về lãi suất chậm thanh toán khi hoàn lại tiền thuê tàu trong Thỏa thuận thuê tàu. Trong RFA, Nguyên đơn đã trích dẫn Điều 306 của Luật Thương mại 2005 và Điều 466.5(b) của Bộ luật Dân sự 2015 làm căn cứ pháp lý để xác định lãi suất chậm thanh toán. Điều 306 của Luật Thương mại 2005 quy định như sau: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Tại Đơn khởi kiện (RFA), Nguyên đơn đã trích dẫn mức lãi suất trung bình của các khoản vay trung hạn bằng đô la Mỹ (the average of the medium-term loan interest rate range for USD) trong Báo cáo tháng 5/2023 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam làm cơ sở để xác định “lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường áp dụng cho các khoản nợ quá hạn”.

Hội đồng trọng tài chấp nhận mức lãi suất cho vay trung bình đối với USD trong Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể được sử dụng làm “mức lãi suất trung bình áp dụng cho các khoản nợ quá hạn trên thị trường”, tuy vậy, nên thay Báo cáo tháng 05/2023 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bằng Báo cáo của một kỳ khác. Sau khi xem xét, hội đồng trọng tài quyết định áp dụng lãi suất trả chậm theo Báo cáo tháng 04/2024 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để phản ánh lãi suất gần nhất với ngày mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp. Hội đồng trọng tài còn cho rằng không nên dùng lãi suất cho vay trung hạn đối với USD mà nên áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn đối với USD  vì: (i) Các Hợp đồng thuê tàu bay giữa Nguyên đơn và Bị đơn không phải là các giao dịch cho vay với thời hạn trả nợ trung hoặc dài hạn; (ii) Thay vào đó, như đã phân tích, việc hoàn trả tiền thuê tàu đến hạn và phải trả sau một khoảng thời gian hợp lý kể từ ngày yêu cầu thanh toán. Do đó, Bị đơn có cả quyền và nghĩa vụ hoàn trả tiền thuê vào bất kỳ lúc nào sau khi các khoản tiền này đến hạn. Thứ hai là, trong Đơn khởi kiện (RFA), Nguyên đơn đề cập rằng do Luật Thương mại năm 2005 không quy định chi tiết về cách xác  định lãi suất trung bình áp dụng cho các khoản nợ quá hạn, nên Nguyên đơn đề nghị Hội đồng trọng tài tham chiếu Điều 466.5(b) Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định việc này. Điều 466.5(b) Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau: “[Bên vay phải trả] Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Xem xét các phần trình bày và giải thích của Nguyên đơn, Hội đồng trọng tài không thấy thuyết phục khi áp dụng Điều 466.5(b) Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định lãi suất trung bình áp dụng cho các khoản nợ quá hạn vì Điều 446.5(b) Bộ luật Dân sự năm 2015 điều chỉnh lãi suất cụ thể được tính dựa trên “lãi vay” trong các giao dịch cho vay, điều này không phù hợp với trường hợp này. Với những nhận định trên và theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005, Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng lãi suất do chậm trả là lãi suất bình quân của lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đô la Mỹ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tháng 4 năm 2024 là 4,65%/năm.

2.3. Về tính toán tiền lãi, tại Bản sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ngày 06/05/2024, Nguyên đơn tính toán tiền lãi do chậm thanh toán là 244.100,10 đô la Mỹ từ ngày 03/10/2021 đến ngày 15/05/2024. Tuy vậy, căn cứ vào thời gian và lãi suất do chậm thanh toán mà Hội đồng trọng tài xác định trên đây, Hội đồng trọng tài tính toán lại tiền lãi do chậm thanh toán như sau: Tiền lãi do chậm thanh toán từ ngày 12/11/2021 đến ngày 06/06/2022 (tương đương 206 ngày) = 938.500 x (4,65% / 365) x 206 = 24.629,84 đô la Mỹ; từ ngày 06/06/2022 đến ngày 11/09/2023 (tương đương 462 ngày) = 928.500 x (4,65% / 365) x 462 = 54.649,22 USD; từ ngày 11/09/2023 đến ngày 04/03/2024 (tương đương 175 ngày) = 918.500 x (4,65% / 365) x 175 = 20.477,52 USD; Lãi chậm nộp từ ngày 04/03/2024 đến ngày 15/05/2024 (tương đương 72 ngày) = 903.500 x (4,65% / 365) x 84 = 8.287,45 USD. Tổng cộng = 108.044,02 đô la Mỹ. Do đó, hội đồng trọng tài quyết định Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn tiền lãi do chậm thanh toán là 108.044,02 đô la Mỹ.