Tranh chấp về áp dụng pháp luật logistics hay hàng hải?
vlimonamedia
04/03/2025
Tranh chấp về áp dụng pháp luật logistics hay hàng hải?
Phân biệt, làm rõ quy định của pháp luật đặc thù (chuyên ngành), nhất là những ngành với dịch vụ “đa dạng”, có thể có vùng “chồng lấn” với dịch vụ của chuyên ngành khác như logistics qua những vụ việc cụ thể cho thấy đây là vấn đề không đơn giản, và trong nhiều trường hợp, kết quả khá “bất ngờ” đã xảy ra như vụ tranh chấp dưới đây để bạn đọc tham khảo.

Tóm tắt sự việc
Công ty HTC (“HTC”) và Công ty Vận tải biển VSN (“VSN”) ký Hợp đồng dịch vụ số 118/HTMV-VISION/2022-CKD ngày 01/7/2022 (“Hợp đồng”), trong đó HTC là khách hàng và bị đơn (VSN) là nhà cung cấp dịch vụ, trong đó có dịch vụ vận chuyển hàng hóa là các linh kiện ô tô KD từ cảng khởi hành (bất kỳ cảng xuất khẩu nào) đến cảng đích (cảng Hải Phòng và/hoặc bất kỳ cảng nào khác tại Việt Nam). Để thực hiện Hợp đồng, tàu “EVER BASIS” V. 1000-041 AI đã vận chuyển toàn bộ lô hàng gồm 146 container từ cảng Ulsan, Hàn Quốc đến cảng Cao Hùng, Đài Loan, được chuyển tiếp lên tàu “UNI ASSENT” V.1017-599S tại cảng Cao Hùng để vận chuyển đến cảng VIP Green, Hải Phòng, Việt Nam. Tàu “UNI ASSENT” V.1017-599S đã cập cảng VIP Green, Hải Phòng vào ngày 18/9/2022. Toàn bộ 146 container đã được dỡ và để tại cảng VIP Green. Sau đó, tất cả số container này đã được giao theo Vận đơn vào các ngày khác nhau và được vận chuyển bằng đường bộ đến kho của HTC tại Ninh Bình.
Qua thông báo tổn thất của HTC, Công ty giám định (“NOR HN”) theo yêu cầu của công ty bảo hiểm hàng hóa đã tiến hành giám định 16 container được cho là có hư hỏng hàng hóa do nước mặn xâm nhập trong quá trình vận chuyển trên biển từ cảng Ulsan, Hàn Quốc đến cảng VIP Green, Hải Phòng với chi tiết như sau: số hợp đồng bảo hiểm/số vận đơn/số container lần lượt là: 000929/ VSNB2209007/ EGHU8447847 và HMCU9086129; 000930/ VSNB/ 2209008/ EMCU9883840, DFSU6688609, TGBU4026499, DFSU6896937 và EISU9445173; 000931/ VSNB2209009/ DRYU9585481 và EITU1455630; 000932/ VSNB2209010/ TRHU7080650 và TLLU4085532; 000933/ VSNB2209011; 000934/ VSNB2209012/ TLLU7693027 và EITU9328740; 000935/ VSNB2209010/ TCNU3269302 và TEMU8681122.
Công ty bảo hiểm đã bồi thường 5.283.075.432 đồng, nhận Giấy biên nhận và thế quyền từ người được bảo hiểm (HTC), thu xếp bán đấu giá hàng hóa bị hư hỏng, thu hồi được số tiền là 846.773.000 đồng. Công ty bảo hiểm cho rằng VSN có trách nhiệm bồi thường toàn bộ tổn thất hàng hóa theo quy định của hợp đồng vận chuyển đã ký với HTC, Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, yêu cầu VSN bồi hoàn số tiền là 4.436.302.432 đồng và bảo lưu quyền đòi chi phí pháp lý, phí biên dịch, tiền lãi, tổn thất và thiệt hại khác. Sau đó, công ty bảo hiểm đã nhiều lần yêu cầu VSN bồi hoàn số tiền 4.436.302.432 đồng nhưng không nhận được phản hồi từ VSN. Do đó, công ty bảo hiểm đã khiếu nại VSN bằng việc nộp Đơn khởi kiện tại một Trung tâm Trọng tài, bắt đầu tố tụng trọng tài để đòi bồi hoàn số tiền nêu trên và các yêu cầu khác.
Quan điểm của bị đơn và nguyên đơn
Bị đơn (VSN) cho rằng (i) mình là nhà cung cấp dịch vụ logistics theo định nghĩa về dịch vụ logistics của pháp luật Việt Nam; (ii) khiếu nại của nguyên đơn đã hết thời hiệu vì
Đơn khởi kiện đề ngày 10/11/2023, đã được nộp sau hơn chín tháng kể từ khiếu nại ban đầu và vượt quá thời hạn một năm được quy định tại Điều 169 của Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015; (iii) Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015 không áp dụng cho Hợp đồng dịch vụ giữa HTC và VSN, vì hợp đồng còn liên quan đến dịch vụ logistics, chứ không chỉ dịch vụ vận chuyển hàng hóa bằng đường biển; và (iv) Luật Thương mại năm 2005 điều chỉnh hợp đồng này và việc Nguyên đơn tìm cách áp dụng Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015 là không phù hợp. Bị đơn nhấn mạnh rằng luật đặc thù chỉ nên áp dụng cho các hoạt động được điều chỉnh rõ ràng bởi luật đó và hợp đồng dịch vụ logistics phải tuân thủ pháp luật về thời hiệu khởi kiện theo Điều 237.1(f) của Luật Thương mại năm 2005. Nguyên đơn có quan điểm ngược lại với quan điểm của bị đơn.
Quyết định và phán quyết trọng tài
Luật đặc thù (chuyên ngành) nào điều chỉnh Hợp đồng: Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2025 (theo khẳng định của Nguyên đơn) hay Luật Thương mại năm 2005 (theo khẳng định của Bị đơn) hoặc luật nào khác được Hội đồng Trọng tài cho là phù hợp nhất? Hội đồng Trọng tài nhận thấy các bên có cách giải thích khác nhau về bản chất của các dịch vụ mà bị đơn đã cung cấp cho HTC theo Hợp đồng. Sự khác biệt này đã dẫn đến những quan điểm trái ngược nhau về luật đặc thù (chuyên ngành) điều chỉnh Hợp đồng và việc xác định thời hiệu khởi kiện. Do đó, Hội đồng Trọng tài cần xem xét kỹ các điều khoản và điều kiện của Hợp đồng, kết hợp với quy định của pháp luật có liên quan do các bên đưa ra để đi đến quyết định về vấn đề này.
Khi xem xét, các sự việc và quy định của pháp luật sau đây được lưu ý: Điều 1.1 của Hợp đồng mô tả dịch vụ do bị đơn cung cấp, nêu rõ rằng “Dịch vụ vận chuyển hàng hóa” nghĩa là các dịch vụ vận chuyển hàng hóa bằng đường biển bao gồm vận chuyển, vận tải, lưu kho, bốc hàng, dỡ hàng, làm chứng từ, khai báo hải quan và bất kỳ dịch vụ bổ sung nào khác về linh kiện ô tô KD từ cảng đi (như được định nghĩa bên dưới [nêu trong Hợp đồng]) tới cảng đến (như được định nghĩa bên dưới [nêu trong Hợp đồng]). Cách hiểu rõ ràng của điều khoản này cho thấy các bên đã xác định cụ thể dịch vụ được cung cấp theo Hợp đồng là “dịch vụ vận chuyển hàng hóa bằng đường biển”. Điều 4.2 của Luật Thương mại năm 2005 hướng dẫn áp dụng Luật này và pháp luật có liên quan quy định như sau: “Hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó”. Điều 1.2 của Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015 quy định phạm vi điều chỉnh như sau: “Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam với quy định của luật khác về cùng một nội dung liên quan đến hoạt động hàng hải thì áp dụng quy định của Bộ luật này”.
Hơn nữa, tất cả các vận đơn cho tổng số 146 container của Hợp đồng do Công ty VSN và Công ty Evergreen cấp, ghi rõ “Cảng dỡ hàng HẢI PHÒNG, VIỆT NAM” và “Nơi giao hàng HẢI PHÒNG, VIỆT NAM” là phù hợp với mô tả của Hợp đồng về dịch vụ vận chuyển hàng hóa bằng đường biển được nêu tại Điều 145 Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015, đó là “… 1. Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển là thỏa thuận được giao kết giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển, theo đó người vận chuyển thu giá dịch vụ vận chuyển do người thuê vận chuyển trả và dùng tàu biển để vận chuyển hàng hóa từ cảng nhận hàng đến cảng trả hàng. 2. Hàng hóa là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, nhiên liệu, hàng tiêu dùng và các động sản khác, kể cả động vật sống, container hoặc công cụ tương tự do người giao hàng cung cấp để đóng hàng được vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển”.
Căn cứ vào các quy định và sự việc nêu trên, Hội đồng Trọng tài quyết định luật đặc thù (chuyên ngành) điều chỉnh Hợp đồng là Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015 được áp dụng cho vụ tranh chấp này. Luật Thương mại năm 2005 và các luật liên quan khác không được viện dẫn khi xác định quyền và nghĩa vụ của các bên theo Hợp đồng trừ khi Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015 không quy định về vấn đề đó.
Đây là vụ kiện đòi bồi hoàn số tiền 4.436.302.432 đồng và một số chi phí. Những vấn đề tranh chấp chính là luật áp dụng; thời hiệu khởi kiện (với hàng container); thời điểm trả hàng (với hàng container); hợp pháp hóa lãnh sự giấy tờ, hồ sơ; miễn trách nhiệm do thời tiết xấu/thiên tai; lưu ý về thống kê hàng hóa thu hồi trong bảo hiểm, và đòi bồi thường thiệt hại hàng hóa. Ngoài những vấn đề khác, Phán quyết Trọng tài (quyết định của Hội đồng Trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài) chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền bồi thường thiệt hại hàng hóa là 3.723.375.934 đồng, tỷ lệ phí trọng tài trên số tiền yêu cầu bồi thường của nguyên đơn được chấp nhận, và bác các yêu cầu khác của nguyên đơn.
Ngô Khắc Lễ
Nhãn