Kiện với tư cách cá nhân cổ đông hay thay mặt công ty?
vlimonamedia
27/10/2025
Khi không “bằng lòng” với hành vi của thành viên hội đồng quản trị (thuộc công ty cổ phần), cổ đông có thể kiện họ nhưng cần lưu ý gì để tránh việc đơn kiện không được thụ lý qua vụ kiện dưới đây để bạn đọc tham khảo.

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 04/3/2022 gửi một trung tâm trọng tài, người đứng đơn khởi kiện (tức Người khởi kiện) là bà T.T.N. với tư cách là cổ đông của một công ty cổ phần (“Công ty”) và Người bị kiện là ông N.V.H, bà L.T.H.H. và ông Đ.T.T. với tư cách là 03 (ba) trong số 09 (chín) thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) nhiệm kỳ 2018 – 2022 (do Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2018 bầu vào ngày 19/4/2018). Ở Đơn khởi kiện, bà N cho rằng “Người bị kiện vi phạm trách nhiệm người quản lý”, “vi phạm của Người bị kiện gây thiệt hại cho Công ty. Tại đây, Người khởi kiện xác định “Căn cứ Khoản 1 Điều 166 Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 (“Luật Doanh nghiệp 2020”), Người khởi kiện là cổ đông sở hữu 4,25% tổng số cổ phần phổ thông của Công ty có quyền khởi kiện trách nhiệm liên đới đối với các thành viên HĐQT để yêu cầu bồi thường thiệt hại cho công ty trong trường hợp thành viên HĐQT vi phạm trách nhiệm người quản lý và thực hiện trái với quy định của pháp luật hoặc Điều lệ công ty”. Người khởi kiện cho rằng mình có quyền kiện Công ty.
Hội đồng trọng tài nhận định, khoản 1 Điều 166 Luật doanh nghiệp năm 2020 quy định “Cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 01% tổng số cổ phần phổ thông có quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm liên đới đối với các thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc để yêu cầu hoàn trả lợi ích hoặc bồi thường thiệt hại cho công ty hoặc người khác” và đây là quy định kế thừa khoản 1 Điều 161 Luật doanh nghiệp năm 2014 theo đó “Cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng có quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc”. Trong vụ tranh chấp này, Người khởi kiện là bà T.T.N. với tư cách là cổ đông của Công ty. Khi khởi kiện, Người khởi kiện chưa thực sự làm rõ đây là việc khởi kiện do thực hiện “quyền tự mình khởi kiện” hay là “quyền nhân danh công ty khởi kiện”. Trong Văn bản nêu ý kiến lần thứ 5, Người khởi kiện vẫn chưa thực sự khẳng định rõ việc thực hiện quyền nào trong các khả năng và còn đưa ra nhận định “bà T.T.N. là Người khởi kiện, dù tự mình hay nhân danh Công ty khởi kiện các Người bị kiện bồi thường thiệt hại cho Công ty”. Tại Phiên họp ngày 20/3/2023, đại diện của bà N khẳng định bà N khởi kiện các cá nhân nêu trên là khởi kiện nhân danh Công ty.
Hội đồng trọng tài xét thấy cổ đông khởi kiện do thực hiện “quyền tự mình khởi kiện” hay “quyền nhân danh công ty khởi kiện” có điểm chung là các căn cứ khởi kiện hay trường hợp được khởi kiện là giống nhau (cùng được liệt kê tại điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 161 Luật doanh nghiệp năm 2014, nay là điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 166 Luật doanh nghiệp năm 2020) nhưng thực hiện hai quyền này có sự khác biệt nhất định. Cụ thể, khoản 2 Điều 161 Luật doanh nghiệp năm 2014 (nay là khoản 2 Điều 166 Luật doanh nghiệp năm 2020) xác định “Chi phí khởi kiện trong trường hợp cổ đông, nhóm cổ đông khởi kiện nhân danh công ty sẽ tính vào chi phí của công ty, trừ trường hợp thành viên khởi kiện bị bác yêu cầu khởi kiện”: quy định này áp dụng trong trường hợp cổ đông “khởi kiện nhân danh công ty” như chính điều luật vừa nêu đã khẳng định, không có cơ sở áp dụng quy định này cho trường hợp cổ đông tự mình khởi kiện. Bên cạnh đó, Văn bản số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao mà các Bên viện dẫn trong quá trình tố tụng có nêu “Căn cứ theo Điều 72, Điều 161 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì thành viên công ty TNHH hoặc cổ đông Công ty cổ phần có quyền nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với người quản lý. Trong trường hợp này nếu việc nhân danh Công ty của thành viên Công ty TNHH hoặc cổ đông Công ty cổ phần là hợp pháp (được Công ty ủy quyền) thì Toà án phải căn cứ khoản 4 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự để thụ lý, giải quyết vụ án”: hướng dẫn này mặc dù áp dụng cho việc Tòa án giải quyết tranh chấp cũng cho thấy có sự khác biệt giữa việc cổ đông khởi kiện “nhân danh công ty” hay “tự mình khởi kiện”; đối với việc khởi kiện “nhân danh công ty”, hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao đòi hỏi phải “được công ty ủy quyền” nhưng đòi hỏi này không tồn tại trong trường hợp cổ đông “tự mình” khởi kiện. Ngoài ra, Hội đồng trọng tài xét thấy nếu là khởi kiện về bồi thường thiệt hại, cổ đông tự mình khởi kiện và cổ đông nhân danh công ty khởi kiện cũng có sự khác nhau: đối với trường hợp cổ đông tự mình khởi kiện, thiệt hại mà cổ đông yêu cầu bồi thường phải là thiệt hại của cá nhân cổ đông, và nếu yêu cầu bồi thường thiệt hại được chấp nhận, tiền bồi thường thuộc về cá nhân cổ đông; còn đối với trường hợp cổ đông nhân danh công ty, thiệt hại mà cổ đông yêu cầu bồi thường phải là thiệt hại của công ty và, nếu yêu cầu bồi thường thiệt hại được chấp nhận, tiền bồi thường thuộc về công ty (không thuộc về cổ đông).
Từ các nhận định nêu trên, Hội đồng trọng tài có cơ sở để xác định Tranh chấp mà Hội đồng trọng tài được yêu cầu giải quyết là Tranh chấp giữa Người khởi kiện là bà T.T.N. với tư cách là cổ đông của Công ty, Người bị kiện là ông N.V.H., bà LT.H.H. và ông Đ.T.T. với tư cách là 03 trong số 09 thành viên Hội đồng quản trị nhiệm kỳ 2018 – 2022 của Công ty. Ở đây, bà N khởi kiện ông H, bà H và ông T không phải là thực hiện “quyền tự mình khởi kiện” mà là thực hiện “quyền khởi kiện nhân danh công ty” (Công ty).
Về khả năng giải quyết Tranh chấp tại trung tâm trọng tài, các quy định trong Luật doanh nghiệp cho phép cổ đông nhân danh công ty khởi kiện thành viên của Hội đồng quản trị như phân tích nêu trên nhưng chưa cho biết việc khởi kiện này được triển khai tại Trọng tài như thế nào. Trong trường hợp cổ đông khởi kiện ra Trọng tài, Hội đồng trọng tài xét thấy cần tuân thủ các quy định về trọng tài trong đó có khoản 1 Điều 5 và khoản 1 Điều 43 Luật Trọng tài thương mại (“Luật TTTM”) theo đó “Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp” và “Trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện được hay không và xem xét thẩm quyền của mình”. Do đó, Hội đồng trọng tài cần xem xét giữa các Bên có thỏa thuận trọng tài đối với tranh chấp được xác định trong phần trên hay không.
Từ các phân tích nêu trên, Hội đồng trọng tài xác định không tồn tại Thỏa thuận trọng tài giữa Người khởi kiện với Người bị kiện đối với Tranh chấp mà Người khởi kiện nhân danh Công ty để yêu cầu Người bị kiện bồi thường thiệt hại. Do đó, Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết Tranh chấp này. Trên cơ sở phân tích, lập luận và chứng cứ của các Bên cùng các điều luật được trích dẫn ở trên, Hội đồng trọng tài quyết định Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền để giải quyết Tranh chấp mà bà T.T.N. nhân danh Công ty cổ phần với tư cách là cổ đông khởi kiện các cá nhân là ông N.V.H., bà L.T.H.H. và ông Đ.T.T. với tư cách là 03 trong số 09 thành viên Hội đồng quản trị nhiệm kỳ 2018 – 2022 của Công ty cổ phần để yêu cầu bồi thường thiệt hại cho Công ty cổ phần.
Ngô Khắc Lễ
Nhãn